TRUNG TÂM XÉT NGHIỆM ADN LAB SÀI GÒN
Hội chứng Down
Hội chứng Down
49
Thứ hai, 09/11/2023, 02:55 (GMT+7)
Mục lục
ToggleHội chứng Down là gì?
Hội chứng Down là một rối loạn di truyền gây ra bởi sự dư thừa 1 nhiễm sắc thể trong cặp nhiễm sắc thể số 21 ở người.
Thông thường mỗi cặp nhiễm sắc thể tương đồng sẽ có 2 nhiễm sắc thể. Trong trường hợp bị hội chứng Down, cặp nhiễm sắc thể số 21 bị thừa ra 1 nhiễm sắc thể và tạo thành 3 nhiễm sắc thể tương đồng ở bộ nhiễm sắc thể số 21. Hiện tượng này còn được gọi là Trisomy 21 hay là thể tam bội nhiễm sắc thể số 21.
Hội chứng Down phổ biến đến mức nào?
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh, cứ 772 trẻ sơ sinh ở Hoa Kỳ thì có khoảng một trẻ sinh ra mắc hội chứng Down, khiến hội chứng Down trở thành tình trạng nhiễm sắc thể phổ biến nhất. Khoảng 5.100 trẻ mắc hội chứng Down được sinh ra ở Hoa Kỳ mỗi năm. (De Graaf và cộng sự, 2022).
Hội chứng Down được phát hiện khi nào?
Trong nhiều thế kỷ, những người mắc hội chứng Down đã được nhắc đến trong nghệ thuật, văn học và khoa học. Tuy nhiên, phải đến cuối thế kỷ 19, John Langdon Down, một bác sĩ người Anh, mới công bố mô tả chính xác về một người mắc hội chứng Down.
Chính nghiên cứu học thuật này, xuất bản năm 1866, đã giúp Down được công nhận là “cha đẻ” của hội chứng này. Mặc dù những người khác trước đây đã nhận ra các đặc điểm của hội chứng này, nhưng chính Down mới là người mô tả tình trạng này như một thực thể riêng biệt và riêng biệt.
Trong lịch sử gần đây, những tiến bộ trong y học và khoa học đã cho phép các nhà nghiên cứu điều tra các đặc điểm của người mắc hội chứng Down. Năm 1959, bác sĩ người Pháp Jérôme Lejeune đã xác định hội chứng Down là tình trạng nhiễm sắc thể.
Thay vì thông thường có 46 nhiễm sắc thể trong mỗi tế bào, Lejeune quan sát thấy 47 nhiễm sắc thể trong tế bào của những người mắc hội chứng Down. Sau đó người ta xác định rằng một phần hoặc toàn bộ bản sao của nhiễm sắc thể 21 sẽ dẫn đến các đặc điểm liên quan đến hội chứng Down.
Vào năm 2000, một nhóm các nhà khoa học quốc tế đã xác định và lập danh mục thành công từng gen trong số khoảng 329 gen trên nhiễm sắc thể 21. Thành tựu này đã mở ra cánh cửa cho những tiến bộ to lớn trong nghiên cứu hội chứng Down.
Hội chứng Down có những dạng bệnh lý nào?
Hội chứng Down không phân ly
Hội chứng Down thường do một lỗi trong quá trình phân chia tế bào được gọi là “không phân ly”.
Sự không phân ly dẫn đến phôi có ba bản sao nhiễm sắc thể 21 thay vì hai bản sao thông thường. Trước hoặc lúc thụ thai, một cặp nhiễm sắc thể thứ 21 trong tinh trùng hoặc trứng không thể phân tách.
Khi phôi phát triển, nhiễm sắc thể bổ sung sẽ được sao chép trong mọi tế bào của cơ thể. Loại hội chứng Down này chiếm 95% các trường hợp, được gọi là trisomy 21.
Hội chứng Down thể khảm
Bệnh khảm (hội chứng Down thể khảm) được chẩn đoán khi có sự kết hợp của hai loại tế bào, một số chứa 46 nhiễm sắc thể thông thường và một số chứa 47.
Những tế bào có 47 nhiễm sắc thể chứa thêm một nhiễm sắc thể 21.
Bệnh khảm là dạng hội chứng Down ít phổ biến nhất và chỉ chiếm khoảng 2% trong tổng số các trường hợp mắc hội chứng Down (Sự thật về hội chứng Down, 2021).
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người mắc hội chứng Down khảm có thể có ít đặc điểm của hội chứng Down hơn những người mắc các loại hội chứng Down khác. Tuy nhiên, không thể khái quát hóa rộng rãi do những khả năng mà người mắc hội chứng Down sở hữu rất đa dạng.
Hội chứng Down chuyển vị
Trong chuyển đoạn, chiếm khoảng 3% các trường hợp mắc hội chứng Down, tổng số nhiễm sắc thể trong tế bào vẫn là 46; tuy nhiên, một bản sao đầy đủ hoặc một phần của nhiễm sắc thể 21 sẽ gắn vào một nhiễm sắc thể khác, thường là nhiễm sắc thể 14 (Hội chứng Facts and Down, 2021).
Sự hiện diện của nhiễm sắc thể 21 đầy đủ hoặc một phần gây ra các đặc điểm của hội chứng Down.
Nguyên nhân gây ra hội chứng Down?
Bất kể một người có thể mắc loại hội chứng Down nào, tất cả những người mắc hội chứng Down đều có thêm một phần quan trọng của nhiễm sắc thể 21 hiện diện trong tất cả hoặc một số tế bào của họ.
Nguyên nhân của nhiễm sắc thể thừa toàn bộ hoặc một phần vẫn chưa được biết.
Tuổi tác là yếu tố duy nhất có liên quan đến việc tăng nguy cơ sinh con mắc hội chứng Down do không phân ly hoặc khảm. Tuy nhiên, do tỷ lệ sinh cao hơn ở phụ nữ trẻ, 51% trẻ mắc hội chứng Down được sinh ra từ phụ nữ dưới 35 tuổi. (De Graaf và cộng sự, 2022).
Chưa có nghiên cứu khoa học dứt khoát nào chỉ ra rằng hội chứng Down là do yếu tố môi trường hoặc hoạt động của cha mẹ trước hoặc trong khi mang thai.
Bản sao một phần hoặc toàn bộ nhiễm sắc thể thứ 21 gây ra hội chứng Down có thể bắt nguồn từ cha hoặc mẹ. Khoảng 5% các trường hợp đều có nguồn gốc từ người cha.
Khả năng sinh con mắc hội chứng Down là bao nhiêu?
Hội chứng Down xảy ra ở mọi người thuộc mọi chủng tộc và mọi trình độ kinh tế, mặc dù phụ nữ lớn tuổi có nguy cơ sinh con mắc hội chứng Down cao hơn.
Một phụ nữ 35 tuổi có khoảng 1/350 nguy cơ thụ thai một đứa trẻ mắc hội chứng Down, và tỉ lệ này tăng dần lên 1/100 ở tuổi 40. Ở tuổi 45, tỷ lệ này là khoảng 1/30. Mẹ hoặc cha mẹ đẻ dường như không liên quan đến nguy cơ chuyển vị.
Vì nhiều cặp vợ chồng trì hoãn việc nuôi dạy con cái cho đến tuổi trưởng thành nên tỷ lệ thụ thai mắc hội chứng Down dự kiến sẽ tăng lên. Vì vậy, việc tư vấn di truyền cho cha mẹ ngày càng trở nên quan trọng.
Tuy nhiên, nhiều bác sĩ vẫn chưa được thông tin đầy đủ về việc tư vấn cho bệnh nhân về tỷ lệ mắc hội chứng Down, những tiến bộ trong chẩn đoán và các phác đồ chăm sóc và điều trị trẻ sinh ra mắc hội chứng Down.
Hội chứng Down có di truyền trong gia đình không?
Cả ba loại hội chứng Down đều là tình trạng di truyền (liên quan đến gen), nhưng chỉ 1% trong số tất cả các trường hợp mắc hội chứng Down có thành phần di truyền (truyền từ cha mẹ sang con qua gen).
Di truyền không phải là yếu tố gây ra bệnh trisomy 21 (không phân ly) và bệnh khảm. Tuy nhiên, trong 1/3 số trường hợp mắc hội chứng Down do chuyển đoạn, có yếu tố di truyền – chiếm khoảng 1% tổng số trường hợp mắc hội chứng Down (Sự thật về hội chứng Down, 2021).
Tuổi của cha mẹ dường như không liên quan đến nguy cơ chuyển vị. Hầu hết các trường hợp đều lẻ tẻ – cơ hội – sự kiện. Tuy nhiên, trong khoảng một phần ba trường hợp, cha hoặc mẹ là người mang nhiễm sắc thể chuyển vị.
Khả năng sinh con thứ hai mắc hội chứng Down là bao nhiêu?
Sau khi cha mẹ sinh con mắc bệnh trisomy 21 (không phân ly) hoặc chuyển đoạn, người ta ước tính rằng khả năng sinh con khác mắc bệnh trisomy 21 là 1 trên 100 cho đến tuổi 40.
Nguy cơ tái phát chuyển đoạn khoảng 3% nếu bố là người mang gen bệnh và 10-15% nếu mẹ là người mang gen. Tư vấn di truyền có thể xác định nguồn gốc của sự chuyển vị.
Tuổi mẹ | Tỷ lệ mắc hội chứng Down |
20 | 1 trên 2.000 |
21 | 1 trên 1.700 |
22 | 1 trên 1.500 |
23 | 1 trên 1.400 |
24 | 1 trên 1.300 |
25 | 1 trên 1.200 |
26 | 1 trên 1.100 |
27 | 1 trên 1.050 |
28 | 1 trên 1.000 |
29 | 1 trên 950 |
30 | 1 trên 900 |
31 | 1 trên 800 |
32 | 1 trên 720 |
33 | 1 trên 600 |
34 | 1 trên 450 |
35 | 1 trên 350 |
36 | 1 trên 300 |
37 | 1 trên 250 |
38 | 1 trên 200 |
39 | 1 trên 150 |
40 | 1 trên 100 |
41 | 1 trên 80 |
42 | 1 trên 70 |
43 | 1 trên 50 |
44 | 1 trên 40 |
45 | 1 trên 30 |
46 | 1 trên 25 |
47 | 1 trên 20 |
48 | 1 trên 15 |
49 | 1 trên 10 |
Hội chứng Down được chẩn đoán như thế nào?
Chẩn đoán trước sinh
Có hai loại xét nghiệm chẩn đoán hội chứng Down có thể được thực hiện trước khi em bé chào đời:
- xét nghiệm sàng lọc
- xét nghiệm chẩn đoán
Sàng lọc trước sinh ước tính nguy cơ thai nhi mắc hội chứng Down. Những xét nghiệm này không cho bạn biết chắc chắn liệu bào thai của bạn có mắc hội chứng Down hay không; kết quả xét nghiệm sàng lọc sẽ chỉ cung cấp một xác suất.
Trong khi đó, các xét nghiệm chẩn đoán có thể đưa ra chẩn đoán xác định với độ chính xác gần như 100%.
Hiện nay có rất nhiều loại xét nghiệm sàng lọc trước sinh dành cho các bậc cha mẹ đang mang thai. Hầu hết các xét nghiệm sàng lọc đều bao gồm xét nghiệm máu và siêu âm (siêu âm).
Xét nghiệm máu (hoặc xét nghiệm sàng lọc huyết thanh) đo lượng chất khác nhau trong máu của cha mẹ. Cùng với tuổi tác, những thông số này được sử dụng để ước tính khả năng sinh con mắc hội chứng Down.
Những xét nghiệm máu này thường được thực hiện cùng với siêu âm chi tiết để kiểm tra các “dấu hiệu” (các đặc điểm mà một số nhà nghiên cứu cảm thấy có thể có mối liên quan đáng kể với hội chứng Down).
Các xét nghiệm sàng lọc trước sinh tiên tiến mới như là xét nghiệm NIPT hiện có thể phát hiện vật liệu nhiễm sắc thể từ thai nhi đang lưu thông trong máu mẹ. Các xét nghiệm này không xâm lấn (như các xét nghiệm chẩn đoán phải dùng đến kỹ thuật chọc dò mẫu ối), nhưng chúng mang lại tỷ lệ chính xác cao. Tuy nhiên, tất cả những phương pháp sàng lọc này sẽ không chẩn đoán chính xác hội chứng Down.
Hiện nay, các xét nghiệm sàng lọc và chẩn đoán trước sinh được cung cấp thường xuyên cho mọi lứa tuổi.
Các thủ tục chẩn đoán hiện có để chẩn đoán trước khi sinh hội chứng Down là lấy mẫu lông nhung màng đệm (CVS) và chọc ối. Những thủ thuật này, có nguy cơ gây sảy thai tự phát (sẩy thai) lên tới 1%, nhưng có độ chính xác gần như 100% trong chẩn đoán hội chứng Down.
Chọc ối thường được thực hiện trong tam cá nguyệt thứ hai từ 15 đến 20 tuần tuổi thai, CVS trong tam cá nguyệt đầu tiên từ 11 đến 14 tuần (Lấy mẫu lông nhung Chrionic, 2020).
Chẩn đoán hội chứng Down lúc trưởng thành
Hội chứng Down thường được xác định khi mới sinh bởi sự hiện diện của một số đặc điểm thể chất:
- trương lực cơ thấp
- có nếp nhăn sâu ở lòng bàn tay
- khuôn mặt hơi dẹt
- mắt xếch lên trên
Vì những đặc điểm này có thể xuất hiện ở trẻ không mắc hội chứng Down nên phân tích nhiễm sắc thể gọi là xét nghiệm Karyotypesẽ được thực hiện để xác nhận chẩn đoán. Để có được kiểu nhân, các bác sĩ lấy mẫu máu để kiểm tra tế bào của em bé.
Xét nghiệm Karyotype phát hiện hội chứng Down (Nguồn: NDSS)
Kỹ thuật viên sẽ chụp ảnh các nhiễm sắc thể và sau đó nhóm chúng theo kích thước, số lượng và hình dạng. Bằng cách kiểm tra kiểu nhân, bác sĩ có thể chẩn đoán hội chứng Down.
Một xét nghiệm di truyền khác gọi là kỹ thuật lai huỳnh quang tại chỗ (FISH) có thể xác nhận chẩn đoán trong khoảng thời gian ngắn hơn bằng cách hình dung và lập bản đồ vật chất di truyền trong tế bào của một cá nhân.
Hội chứng Down và bệnh suy giáp
Bệnh tuyến giáp là một trong những biểu hiện thường gặp của hội chứng Down.
Các nghiên cứu đã cho thấy hội chứng Down và bệnh suy giáp có mối liên hệ với nhau. Cụ thể là suy giáp (tuyến giáp hoạt động kém) là loại bệnh thường xảy ra nhất và người ta ước tính rằng 13% đến 55% số người mắc hội chứng Down sẽ phát triển tình trạng này trong suốt cuộc đời của họ (trung bình, bệnh tuyến giáp ảnh hưởng đến khoảng 12% số người dân số nói chung).
Những người mắc hội chứng Down cũng có nguy cơ cao mắc các vấn đề khác về tuyến giáp, chẳng hạn như cường giáp (tuyến giáp hoạt động quá mức).
Hội chứng Down có tác động gì đến xã hội?
Những người mắc hội chứng Down ngày càng hòa nhập vào các tổ chức xã hội và cộng đồng như trường học, hệ thống chăm sóc sức khỏe, lực lượng lao động và các hoạt động xã hội và giải trí.
Những người mắc hội chứng Down có mức độ chậm phát triển nhận thức khác nhau, từ rất nhẹ đến nặng. Hầu hết những người mắc hội chứng Down đều bị chậm phát triển nhận thức ở mức độ nhẹ đến trung bình.
Nhờ những tiến bộ trong công nghệ y tế, những người mắc hội chứng Down đang sống lâu hơn bao giờ hết.
Năm 1910, trẻ em mắc hội chứng Down được cho là có thể sống sót đến 9 tuổi. Với việc phát hiện ra thuốc kháng sinh, độ tuổi sống sót trung bình tăng lên 19 hoặc 20.
Hiện nay, với những tiến bộ gần đây trong điều trị lâm sàng, đặc biệt là các ca phẫu thuật điều chỉnh tim, có tới 80% người trưởng thành mắc hội chứng Down đạt đến tuổi 60 và nhiều người thậm chí còn sống lâu hơn. (Hội chứng Down, 2018).
Ngày càng có nhiều người Mỹ tương tác với những người mắc hội chứng Down, làm tăng nhu cầu được giáo dục và chấp nhận rộng rãi trong cộng đồng.
Tài liệu tham khảo
- https://www.cdc.gov/ncbddd/birthdefects/downsyndrome.html
- https://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/down-syndrome/symptoms-causes/syc-20355977
- https://my.clevelandclinic.org/health/diseases/17818-down-syndrome